Kích thích buồng trứng là gì? Các công bố khoa học về Kích thích buồng trứng

Kích thích buồng trứng là quá trình sử dụng các loại thuốc hoặc phương pháp để tăng số lượng trứng được phát triển trong buồng trứng của phụ nữ. Mục đích chính ...

Kích thích buồng trứng là quá trình sử dụng các loại thuốc hoặc phương pháp để tăng số lượng trứng được phát triển trong buồng trứng của phụ nữ. Mục đích chính của quá trình này là để thu thập trứng cho quá trình thụ tinh trong các kỹ thuật thụ tinh nhân tạo, như điều trị vô sinh hoặc giúp tăng cơ hội thụ tinh tự nhiên. Các thuốc hoặc phương pháp được sử dụng trong kích thích buồng trứng có thể bao gồm hormone sinh dục nhân tạo được tiêm hoặc uống, hoặc xâm nhập kiểm soát qua các quy trình dùng siêu âm và siêu âm. Quá trình này thường được thực hiện dưới sự giám sát của các chuyên gia y tế để đảm bảo an toàn và hiệu quả.
Quá trình kích thích buồng trứng được thực hiện thông qua việc sử dụng các hormone sinh dục nhân tạo để kích thích sự phát triển của nhiều trứng trong buồng trứng. Phụ nữ thường chỉ phát triển một trứng duy nhất trong mỗi chu kỳ kinh nguyệt, nhưng thông qua kích thích buồng trứng, có thể kích thích sự phát triển và chín muồi của nhiều trứng cùng một lúc.

Quá trình kích thích buồng trứng bắt đầu bằng việc tiêm hoặc uống các loại hormone sinh dục nhân tạo như hormone kích thích tăng trưởng (FSH) và hormone kích thích tuyến yên (LH). Các hormone này giúp tăng cường sự phát triển và chín muồi của nhiều trứng trong buồng trứng.

Sau đó, các bác sĩ sẽ theo dõi tiến trình phát triển của trứng thông qua việc sử dụng siêu âm và siêu âm. Siêu âm sẽ giúp bác sĩ xác định kích thước và số lượng trứng đã phát triển. Dựa vào những thông tin này, liều lượng hormone có thể được điều chỉnh để đạt được kết quả tốt nhất.

Khi trứng đã đạt đủ kích thước và trưởng thành, một thuốc hormone khác được sử dụng để kích phát trứng - hormone kích phát trứng (hCG). Hormone này giúp trứng rời khỏi buồng trứng, quá trình được gọi là ovulation.

Sau quá trình ovulation, trứng được thu thập thông qua quá trình phẫu thuật nhỏ gọi là phẫu thuật tiếp cận bằng kim (retrieval). Quá trình này được thực hiện dưới tình trạng tê hoặc gây mê ngắn hạn và sử dụng một kim nhỏ để thu thập trứng từ buồng trứng.

Trứng thu thập được được sử dụng cho quá trình thụ tinh trong phòng thí nghiệm, entquá trình thụ tinh tự nhiên hoặc trong các kỹ thuật thụ tinh nhân tạo như phôi tinh trong ống nghiệm (IVF).

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "kích thích buồng trứng":

Kích Thích Enzyme Ornithine Decarboxylase Trong Buồng Trứng Chuột Bằng Hormone Luteinizing Dịch bởi AI
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 172 Số 3981 - Trang 379-380 - 1971

Trong chuột bạch bình thường có chu kỳ động dục 4 ngày, hoạt động của ornithine decarboxylase ở buồng trứng tăng đột biến vào buổi tối của giai đoạn proestrus và chỉ vào thời điểm đó. Phản ứng này có thể được khơi gợi thông qua việc tiêm hormone luteinizing hoặc gonadotropin chorionic người. Khi tiêm huyết thanh chống hormone luteinizing vào lúc 2 giờ chiều trong ngày proestrus, sự kích thích ornithine decarboxylase bị chặn, điều này cho thấy enzyme này chịu sự kiểm soát của hormone luteinizing. Việc định vị chiến lược sự kích thích của ornithine decarboxylase giữa sự giải phóng bình thường của hormone luteinizing và rụng trứng gợi ý rằng putrescine có liên quan đến quá trình rụng trứng, mở ra một hướng nghiên cứu mới về sự kiểm soát quá trình rụng trứng.

#ornithine decarboxylase #hormone luteinizing #chuột bạch #rụng trứng #nghiên cứu sinh lý
BÀI BÁO ĐÃ RÚT: Hormone kích thích nang trứng điều chế tế bào gốc buồng trứng thông qua biến thể thụ thể được cắt ghép thay thế FSH-R3 Dịch bởi AI
Journal of Ovarian Research - Tập 6 Số 1
Tóm tắt Giới thiệu

Chúng tôi đã báo cáo trước đây rằng hormone kích thích nang trứng (FSH) điều chế tế bào gốc buồng trứng, bao gồm tế bào gốc phân lập đa năng rất nhỏ (VSELs) và các thế hệ con ngay lập tức được gọi là tế bào gốc sinh dục buồng trứng (OGSCs), nằm trong biểu mô bề mặt buồng trứng của động vật có vú trưởng thành (OSE). FSH có thể tác động đa diện thông qua các dạng biến thể thụ thể cắt ghép thay thế. Có bốn dạng thụ thể FSH (FSHR) được báo cáo trong tài liệu, trong đó FSH-R1 và FSH-R3 có hoạt tính sinh học. Nghiên cứu hiện tại được thực hiện để xác định các dạng FSHR trung gian tác động của FSH lên tế bào gốc buồng trứng, sử dụng mô hình nghiên cứu là nuôi cấy tế bào OSE của cừu.

Kích thích buồng trứng có kiểm soát và bổ sung progesterone ảnh hưởng đến vi sinh vật âm đạo và nội mạc tử cung trong các chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm: một nghiên cứu thí điểm Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 37 Số 9 - Trang 2315-2326 - 2020
Tóm tắt Mục đích

Kích thích buồng trứng có kiểm soát (COS) và bổ sung progesterone (P) có làm thay đổi vi sinh vật âm đạo và nội mạc tử cung ở phụ nữ tiến hành thụ tinh ống nghiệm không?

Phương pháp

Mười lăm phụ nữ đã được phân tích vi sinh vật tại hai thời điểm: trong một lần chuyển phôi giả được thực hiện ở giai đoạn hoàng thể của chu kỳ trước COS, và tại thời điểm chuyển phôi tươi (ET). Một mẫu dịch âm đạo và đầu xa của ống chuyển phôi được phân tích bằng phương pháp giải trình tự gen 16SrRNA thế hệ mới. Sự đa dạng của vi sinh vật được đánh giá dựa trên cả chỉ số tương đồng Bray-Curtis và chỉ số đa dạng Shannon.

Kết quả

Lactobacillus là chi phổ biến nhất trong các mẫu âm đạo, mặc dù tỷ lệ tương đối của nó đã giảm do COS kết hợp với bổ sung P (71.5 ± 40.6% so với 61.1 ± 44.2%). Trong âm đạo, đã quan sát thấy sự gia tăng các loài gây bệnh, liên quan đến Prevotella (3.5 ± 8.9% so với 12.0 ± 19.4%), và Escherichia coli-Shigella spp. (1.4 ± 5.6% so với 2.0 ± 7.8%). Ở nội mạc tử cung, tỷ lệ Lactobacilli giảm nhẹ (27.4 ± 34.5% so với 25.0 ± 29.9%); ngược lại, cả PrevotellaAtopobium đều tăng lên (3.4 ± 9.5% so với 4.7 ± 7.4% và 0.7 ± 1.5% so với 5.8 ± 12.0%). Tại cả hai vị trí, sự đa dạng sinh học cao hơn được quan sát thấy sau khi COS (p < 0.05), đặc biệt là trong vi sinh vật nội mạc tử cung, được xác nhận bởi phân tích Bray-Curtis về khoảng cách phát sinh chủng giữa các chi vi khuẩn. Phân tích Bray-Curtis cũng xác nhận sự khác biệt đáng kể cho các mẫu nội mạc tử cung-âm đạo ghép đôi tại mỗi thời điểm.

#Kích thích buồng trứng có kiểm soát #bổ sung progesterone #vi sinh vật âm đạo #vi sinh vật nội mạc tử cung #thụ tinh ống nghiệm
Phản ứng của nội mạc tử cung ở bò cái thịt vào ngày 7 sau khi thụ tinh với nồng độ progesterone siêu sinh lý liên quan đến hiện tượng siêu rụng trứng Dịch bởi AI
Physiological Genomics - Tập 44 Số 22 - Trang 1107-1115 - 2012

Kích thích buồng trứng là một quy trình thường quy trong sinh sản hỗ trợ nhằm kích thích sự phát triển của nhiều nang trứng ở những loài chỉ rụng trứng một lần một cách tự nhiên, bao gồm cả gia súc và con người. Mục tiêu của nghiên cứu này là phân tích các thay đổi được tạo ra trong hệ gen nội mạc tử cung liên quan đến hiện tượng siêu rụng trứng ở bò cái thịt và đặt những quan sát này trong bối cảnh dữ liệu trước đó của chúng tôi về các thay đổi trong hệ gen nội mạc tử cung liên quan đến nồng độ progesterone (P4) gia tăng trong phạm vi sinh lý và các thay đổi đó ở phôi do hiện tượng siêu rụng trứng gây ra. Nồng độ P4 trung bình trong huyết tương cao đáng kể từ ngày 4 đến ngày 7 ở những con bò cái siêu rụng trứng so với nhóm đối chứng chưa được kích thích (P < 0.05). Phân tích giữa các nhóm cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong hồ sơ biểu hiện gen tổng thể của nội mạc tử cung ở bò cái đối chứng chưa được kích thích (n = 5) so với bò cái siêu rụng trứng (n = 5). Điều này được phản ánh trong số lượng các gen được biểu hiện khác nhau (DEGs) được xác định giữa hai nhóm với 795 gen được tăng cường biểu hiện và 440 gen bị giảm biểu hiện trong nội mạc tử cung siêu rụng trứng. Số lượng gen được thay đổi do siêu rụng trứng (n = 1,234) gấp mười lần so với số lượng gen bị thay đổi do nồng độ P4 gia tăng trong phạm vi sinh lý bằng cách cấy thiết bị phóng thích P4 vào âm đạo (n = 124), chỉ có 22 DEGs là chung cho cả hai mô hình can thiệp P4. Ít hơn các gen bị ảnh hưởng bởi hiện tượng siêu rụng trứng ở phôi so với nội mạc tử cung (443 so với 1,234 DEGs, tương ứng), và cách mà các gen bị thay đổi là khác nhau với 64.5% số gen được tăng cường biểu hiện và 35.5% số gen bị giảm biểu hiện trong nội mạc tử cung, trong khi đó 98.9% DEGs được tăng cường biểu hiện ở phôi. Tóm lại, siêu rụng trứng gây ra những thay đổi đáng kể trong hệ gen của nội mạc tử cung, điều này là khác biệt so với những thay đổi trong phôi.

#Kích thích buồng trứng #siêu rụng trứng #nội mạc tử cung #progesterone #biểu hiện gen.
16. Kết quả kích thích buồng trứng nhẹ bằng Clomiphene Citrate kết hợp FSH trên bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm giảm dự trữ buồng trứng tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 169 Số 8 - Trang 132-138 - 2023
Nghiên cứu hồi cứu trên nhóm bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng, được kích thích buồng trứng bằng phác đồ nhẹ, từ tháng 8/2020 đến tháng 8/2022 tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương nhằm khảo sát kết quả thu noãn và tạo phôi ở 2 nhóm (nhóm I: liều Clomiphen Citrate 100 mg/ngày kết hợp FSH 150UI – 225UI; nhóm II: liều Clomiphen Citrate 150 mg/ngày kết hợp FSH 150UI – 225UI). Kết quả cho thấy: Liều FSH trung bình của nhóm I là 168,6 ± 28,9 UI/ngày; nhóm II là 164,7 ± 22,1 UI/ngày. Tổng số noãn thu được và số noãn MII của nhóm I (5,8 ± 4,9 và 4,7 ± 3,9); nhóm II (5,0 ± 2,6 và 3,8 ± 2,1). Tổng số phôi thu được của nhóm I là 3,8 ± 3,1; nhóm II là 2,95 ± 1,6. Sự khác biệt về số phôi thu được giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Như vậy, kích thích buồng trứng nhẹ là cách tiếp cận tiềm năng dành cho bệnh nhân giảm dự trữ buồng trứng. Trong đó, sử dụng liều Clomiphen Citrate 100 mg/ngày và 150 mg/ngày kết hợp FSH liều thấp cho kết quả noãn và phôi tạo thành tương tự nhau.
#Giảm dự trữ buồng trứng #kích thích buồng trứng nhẹ
So sánh kết quả thụ tinh trong ống nghiệm hiến nhận noãn giữa hai nhóm kích thích buồng trứng bằng phác đồ đối vận và phác đồ dài
Tạp chí Phụ Sản - Tập 13 Số 2A - Trang 50-52 - 2015
Mục tiêu: so sánh kết quả TTTON (số noãn, số phôi, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ có thai và số ngày điều trị) giữa 2 nhóm phác đồ đối vận và phác đồ dài trên các cặp bệnh nhân cho nhận noãn. Đối tượng và phương pháp: hồi cứu 129 cặp vợ chồng TTTON cho nhận noãn được KTBT bằng phác đồ dài (n=50) và phác đồ đối vận (n=79). So sánh kết quả TTTON gồm tuổi, tổng liều FSH, số ngày điều trị, số noãn chọc hút, số phôi, tỷ lệ có thai... Kết quả: tổng liều FSH nhóm phác đồ dài là 2044,5 ± 560,2đv so với nhóm phác đồ đối vận là 1926,4 ± 638,3đv, số ngày điều trị nhóm phác đồ dài là 22,02 ± 0,7 so với nhóm phác đồ đối vận là 10,5 ± 3,3. Số noãn nhóm phác đồ dài là 13,16 ± 7,9, nhóm phác đồ đối vận là 14,27 ± 7,4. Tỷ lệ có thai nhóm phác đồ dài là 29,5% so với nhóm phác đồ đối vận là 32,1%. Kết luận: Số noãn, số phôi tạo thành, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ có phôi trữ lạnh tương đương nhau ở cả hai nhóm phác đồ dài và phác đồ đối vận. Bệnh nhân trong nhóm phác đồ đối vận điều trị ngắn ngày hơn so với bệnh nhân nhóm phác đồ dài.
#phác đồ dài #phác đồ đối vận #cho nhận noãn
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng so sánh hiệu quả phác đồ kích thích buồng trứng sử dụng corifollitropin α và menotropin với phác đồ follitropin β đơn thuần ở bệnh nhân đáp ứng buồng trứng kém
Tạp chí Phụ Sản - Tập 14 Số 3 - Trang 140-145 - 2016
Mục tiêu: So sánh hiệu quả phác đồ KTBT sử dụng Corifollitropin α với hp-hMG (Corifollitropin α + hp-hMG) và phác đồ sử dụng FSH tái tổ hợp đơn thuần (Follitropin β) ở bệnh nhân < 40 tuổi đáp ứng buồng trứng kém theo tiêu chuẩn Bologna. Phương pháp: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng thực hiện trên 64 bệnh nhân thụ tinh ống nghiệm dưới 40 tuổi, có tiền sử đáp ứng kém (≤ 3 noãn) và có AMH <1,1ng/ml hay AFC <7. Bệnh nhân được ngẫu nhiên nhận phác đồ KTBT sử dụng Corifollitropin α + hp-hMG hay Follitropin β. Kết cục chính là tỉ lệ thai diễn tiến. Kết cục phụ gồm số noãn chọc hút được, số chu kỳ bị hủy do đáp ứng quá kém, số chu kỳ có phôi chuyển, số chu kỳ có phôi trữ, số phôi và chất lượng phôi, tỉ lệ thai sinh hoá, thai lâm sàng và tỉ lệ hủy chu kỳ do biến cố bất lợi nghiêm trọng. Kết quả: Nhóm Corifollitropin α + hp-hMG có dự trữ buồng trứng kém hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm Follitropin β (FSH ngày 2 lần lượt là 11,3 ± 6,3 so với 8,4 ± 4,0, p = 0,03). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ thai diễn tiến giữa nhóm sử dụng phác đồ Corifollitropin α + hp-hMG và nhóm Follitropin β (15,4% so với 26,7%, p > 0,05) và các kết cục phụ khác của nghiên cứu. Kết luận: Phác đồ Corifollitropin α + hp-hMG không hiệu quả hơn Follitropin β đơn thuần trong KTBT phụ nữ trẻ tuổi đáp ứng kém theo tiêu chuẩn Bologna. Cần nghiên cứu tiếp tục với cỡ mẫu lớn hơn để có kết luận chắc chắn.
#Kích thích buồng trứng #đáp ứng buồng trứng kém #corifollitropin α #hp-hMG #follitropin β
Hiệu quả của kích thích phóng noãn với hMG trên bệnh nhân hội chứng buồng trứng đa nang
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 3 - Trang 98-101 - 2014
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá hiệu quả và sự an toàn của việc gây phóng noãn hay kích thích buồng trứng (KTBT) trên bệnh nhân hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) với hMG liều khởi đầu 75 IU. Đây là một nghiên cứu hồi cứu, 299 bệnh nhân PCOS được KTBT kết hợp với bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI) hoặc giao hợp tự nhiên vào năm 2013 tại IVFAS được nhận vào nghiên cứu. Bệnh nhân được tiêm hMG 75IU mỗi ngày trong vòng 6 ngày, tăng liều mỗi lần 75IU nếu không có nang phát triển trên 12mm (tối đa 150IU/ngày). Human Chorionic Gonadotrophin (5.000IU) hoặc GnRH agonist (triptoreline 0,2mg) được tiêm cho bệnh nhân khi nang noãn lớn nhất có kích thước ≥ 18 mm, và bệnh nhân được hướng dẫn IUI hoặc giao khoảng 36 giờ sau đó. Tuổi trung bình của người phụ nữ là 28,6 (năm). Thời gian KTBT là 13,2 ± 3,7 ngày và tổng liều hMG sử dụng trung bình là 1202 ± 506 IU. Nang noãn phát triển xuất hiện ở 96,3% chu kỳ điều trị, trong đó 56,7% có 1 nang phát triển và có 4,3% trường hợp được chuyển sang IVM/IVF do đáp ứng quá mức. Tỉ lệ thai lâm sàng là 46,9%. Có 22 trong số 148 trường hợp có thai (14,9%) là đa thai, trong đó có 2 trường hợp tam thai, còn lại là song thai. Có 4 trường hợp hội chứng quá kích buồng trứng (OHSS) trung bình. Phác đồ liều thấp tăng dần sử dụng hMG liều khởi đầu 75IU mỗi ngày là hiệu quả và an toàn trong KTBT cho bệnh nhân PCOS.
Polyp nội mạc tử cung phát hiện trong quá trình kích thích buồng trứng và kết cục chu kỳ chuyển phôi trữ sau cắt polyp
Tạp chí Phụ Sản - Tập 18 Số 4 - Trang 33-40 - 2021
Giới thiệu: Polyp nội mạc tử cung là bất thường buồng tử cung thường gặp nhất, đặc biệt ở các phụ nữ vô sinh. Việc phát hiện các polyp nội mạc tử cung trong quá trình kích thích buồng trứng- Thụ tinh trong ống nghiệm (KTBT–TTTON) là khá thường gặp trên lâm sàng. Chuyển phôi tươi hay đông lạnh phôi ở các chu kỳ này vẫn còn nhiều bàn cãi. Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá kết cục chu kỳ chuyển phôi trữ sau phẫu thuật nội soi cắt polyp và so sánh với các chu kỳ chuyển phôi trữ (CPT) sau trữ phôi toàn bộ (TPTB) do các nguyên nhân khác. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu trên các bệnh nhân hoàn thành chu kỳ CPT đầu tiên sau khi trữ phôi toàn bộ do bất kỳ nguyên nhân nào khi thực hiện TTTON bằng phương pháp ICSI tại khoa Hỗ trợ sinh sản- Bệnh viện Trung Ương Huế trong khoảng thời gian từ tháng 01/2019 đến tháng 06/2020. Tiêu chuẩn chọn bệnh bao gồm: các chu kỳ TTTON bằng trứng tự thân, tuổi trẻ dưới 35 tuổi, có phôi ngày 3 chất lượng tốt có thể trữ đông bằng phương pháp thủy tinh hóa và vẫn ở tình trạng tốt sau khi rã đông. Tiêu chuẩn loại trừ bao gồm: chuyển ít hơn 2 phôi và nhiều hơn 3 phôi, không có ít nhất 1 phôi tốt, bệnh lý vòi tử cung hoặc LNMTC nặng. Các bệnh nhân được chia làm 4 nhóm: nhóm 1 gồm các bệnh nhân TPTB do polyp nội mạc tử cung phát hiện trong khi KTBT, nhóm 2 gồm các bệnh nhân TPTB do nguy cơ QKBT, nhóm 3 gồm các bệnh nhân TPTB do tăng Progesterone sớm và nhóm 4 TPTB do các nguyên nhân khác. Kết quả: trong 379 chu kỳ KTBT bằng trứng tự thân, có 30 trường hợp mới được chẩn đoán polyp NMTC trong khi KTBT, với tỉ lệ 7,9%. 92 chu kỳ chuyển phôi trữ thỏa mãn tiêu chuẩn nhận-loại được đưa vào nghiên cứu, trong đó có 18 chu kỳ sau phẫu thuật cắt polyp nội mạc tử cung. Tỷ lệ bhCG dương tính, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ làm tổ của nhóm bệnh nhân chuyển phôi trữ sau khi phẫu thuật cắt polyp NMTC  lần lượt là 55,6%; 50% và 26,9%; tương đồng với các nhóm TPTB do các nguyên nhân khác. Không có mối liên quan nào giữa các yếu tố độc lập bao gồm tuổi, BMI, số phôi chuyển, nội mạc tử cung và nguyên nhân đông phôi toàn bộ với tỉ lệ có thai lâm sàng.  Kết luận: Đông phôi toàn bộ, phẫu thuật nội soi buồng cắt polyp nội mạc tử cung sau đó chuyển phôi trữ ở các chu kỳ tiếp theo là một lựa chọn mang lại tỉ lệ có thai phù hợp. Tuy nhiên cần các nghiên cứu tiến cứu với cỡ mẫu lớn được thực hiện để xác thực các phát hiện trong nghiên cứu này.
#polyp buồng tử cung #phẫu thuật nội soi cắt polyp buồng tử cung #chuyển phôi trữ #trữ phôi toàn bộ
Bước đầu đánh giá kết quả nuôi cấy in-vitro trứng MI trong các chu kỳ kích thích buồng trứng tại Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 3 - Trang 118-121 - 2014
Đặt vấn đề: Khoảng 15-20% trứng thu được trong các chu kỳ kích thích buồng trứng vẫn còn ở giai đoạn GV hoặc MI. Một số trứng này có thể phát triển đền giai đoạn MII sau khi nuôi cấy 24h. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ trưởng thành trứng non, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ phôi tốt từ các trứng được nuôi cấy. Phương pháp: Nghiên cứu thu được 36 trứng MI từ 8 bệnh nhân điều trị IVF. Trứng non được nuôi cấy 24 giờ trong điều kiện ống nghiệm trước khi ICSI. Kết quả: Tỷ lệ trưởng thành trứng non đạt 88,88%, tỷ lệ thụ tinh là 62,5%, tỷ lệ phôi tốt là 42,5%. Kết luận: Tỷ lệ trứng non cao trong các chu kỳ điều trị IVF là điều không mong đợi nhưng chúng vẫn có thể phát triển trong điều kiện ống nghiệm để gia tăng khả năng có thai của bệnh nhân.
Tổng số: 61   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7